Chả thế mà Nga, Trung  Quốc, Mỹ, Canada, Ấn Độ,  Australia, Brazil... luôn dẫn đầu thế giới về  sản lượng hầu hết các loại  khoáng sản. Nước ta đất chật người đông, cho  dù thượng đế có ưu ái cũng  không thể hoá phép để biến một nước có diện  tích thứ 65 trên thế giới  (dân số thứ 13) trở thành cường quốc về tài  nguyên thiên nhiên. Gần đây,  bauxite Tây Nguyên và cát đen chứa titan  dọc theo ven biển miền Trung  được xem như một lợi thế tài nguyên lớn  của đất nước. Song nhiều chuyên  gia địa chất lâu năm lại tỏ ra dè dặt  về những con số trữ lượng dường  như được thổi phồng, thậm chí họ còn  nhắc nhở thêm: cái mà thế giới cần,  ta không có, còn cái ta có, thế  giới lại không cần, hoặc họ có nhiều  hơn.
Trên thực tế, hai mặt hàng  khoáng sản lớn nhất của Việt  Nam là dầu và than đá, dầu mỏ đứng thứ 36  trên thế giới (hơn 300 ngàn  thùng/ngày), than đá thứ 17 (41 triệu  tấn). Xem ra, chúng ta không nằm  ngoài quy luật thống kê vừa nói trên.  Năm 2008, xuất khẩu khoáng sản của  ta chỉ chiếm 20% tổng kim ngạch xuất  khẩu, trong đó 80% là dầu thô, 10%  than đá, và các khoáng sản khác chỉ  chiếm 10%.
Có tài nguyên dồi dào mới  chỉ là tiền đề, xử lý chúng  thế nào mới là chuyện quyết định. Liệu việc  đào bới cát đen trong mấy  chục năm qua đã sinh lợi cho ai, và nguồn  lợi mà Chính phủ thu được có  thấm thía gì nếu muốn khôi phục lại vùng  ven biển miền Trung đã bị tàn  phá hay không?
Quy hoạch thăm dò, khai  thác, chế biến quặng bauxite do  TKV trình và được Chính phủ phê duyệt  tháng 11.2007, đã toát lên một  tinh thần khẩn trương, chạy đua với thời  gian để năm 2015 đạt 6 – 8,5  triệu tấn alumina, và tăng tốc mạnh hơn  nữa đến 15 triệu tấn vào năm  2025. Ngay đến Trung Quốc, nước hàng đầu  thế giới cả về alumina lẫn  aluminium (nhôm), với tập đoàn Chalco hùng  mạnh, khai thác khoáng sản  khắp nơi trên thế giới, cũng chỉ sản xuất  hơn 8 triệu tấn alumina hàng  năm. Trớ trêu hơn, toàn bộ sản lượng khổng  lồ ấy của ta lại phải xuất  sang Trung Quốc, nước vừa cung cấp công  nghệ vừa bao tiêu sản phẩm cho  hai nhà máy đầu tiên, Tân Rai và Nhân  Cơ, và chắc chắn sẽ tiếp tục làm  như thế cho các nhà máy sau. Trong khi  đề xuất một kế hoạch quá mạo hiểm  như vậy, lại không hề nói rõ bao giờ  ta mới nội địa hoá và làm chủ được  công nghệ chế biến alumina, một  công nghệ quá cổ điển, đã có từ cuối  thế kỷ 19.
Chúng ta đã có quá nhiều  bài học thất bại về làm chủ  công nghệ. Sau hàng chục năm xây dựng công  nghiệp ôtô, mức độ nội địa  hoá chỉ quanh quẩn 4 – 5%. Với 100 đôla xuất  được từ hàng may mặc ta  phải nhập khẩu thiết bị, nguyên vật liệu đến  80 đôla ngay từ các nước  láng giềng. Năm nay Việt Nam mới bắt đầu có  sản phẩm lọc dầu nội địa,  chậm hơn Thái Lan và Malaysia đến vài chục  năm. Song có nhà máy lọc dầu  không đồng nghĩa với làm chủ công nghệ hoá  dầu. Tình trạng chậm tiến độ  do trục trặc kỹ thuật tại nhà máy Dung  Quất gần đây cho thấy làm chủ  công nghệ, ngay chỉ ở mức độ vận hành  suôn sẻ những công nghệ nhập từ  nước ngoài, vẫn còn lắm gian nan.
Tại sao người Việt Nam không bước lên được quỹ đạo mà người Hàn Quốc đã ung dung trên đó từ cách đây bốn thập kỷ?
Hàng trăm đề tài được  nghiệm thu xuất sắc về chế biến  quặng ilmenit để tạo ra bột TiO2,  zircon... , vẫn nằm trong ngăn kéo.  Trong khi đó, qua chuyến khảo sát  gần đây tại Bình Thuận, nơi dự kiến có  lượng ilmenit và zircon đến hơn 6  triệu tấn, chúng tôi được xác nhận  rằng cách có lời nhất là bán  ilmenit sơ chế thô (qua khâu tuyển trọng  lực) cho Trung Quốc, rồi mua  lại của họ các thành phẩm chế biến tiếp  theo.
Cần phải nhận dạng cho  đúng tại sao chúng ta thất bại,  không làm chủ được công nghệ trong rất  nhiều ngành công nghiệp. Việc này  sẽ giúp chúng ta đi dúng quỹ đạo công  nghiệp hoá – hiện đại hoá, để  không sa lầy vào cái “bẫy thu nhập trung  bình”. Nhưng cho dù có những  thất bại vừa qua, chúng ta không được  phép hạ cái khẩu hiệu “khoa học –  công nghệ là then chốt” xuống trong  khi rất cần trưng nó lên để hoạch  định một ngành công nghiệp hướng đến  thương hiệu quốc gia dựa trên lợi  thế tài nguyên thiên nhiên của mình.
***
Có tài nguyên không thể  không khai thác. Nhưng không  vội, không vơ vét, vì còn phải dành cho  con cháu mai sau, và vì phải có  đủ thời gian để học làm chủ công nghệ.  Nhất quyết không bán rẻ tài  nguyên cho nước ngoài. Cát đen không những  chỉ chứa TiO2, monaxit, đất  hiếm mà trong đó còn có zircon, từ đó làm  ra hợp kim zircaloy cho vỏ  thanh nhiên liệu trong nhà máy điện hạt  nhân, còn có thorium, nguồn  nhiên liệu tương lai có thể thay thế cho  uranium đang cạn dần. Vậy tại  sao phải ra sức đào bới các đụn cát xinh  xắn mà thượng đế đã dày công  vun đắp để chắn sóng, che gió, để từ nước  mưa chắt lọc ra những mạch  nước mội ngay sát bờ biển... rồi đem cát đen  ấy bán vội cho nước ngoài?  Như thế đâu phải là công nghiệp hoá – hiện  đại hoá!
Có người phản biện: “Các  nước ngày nay giàu có chính là  nhờ vơ vét tài nguyên để công nghiệp hoá  trong hàng trăm năm qua, có  còn gì dành lại cho con cháu họ đâu?” Xin  thưa, ít ra họ cũng còn truyền  lại khối tri thức khoa học – công nghệ  khổng lồ làm của hồi môn cho con  cháu.
Phạm Duy Hiển